Người Thông Minh Nhất Thế Giới
Vào một buổi chiều Chủ Nhật, một bác sĩ, một luật sư, một cậu bé và một linh mục đi trên một chiếc máy bay tư nhân nhỏ. Đột nhiên, chiếc máy bay có dấu hiệu động cơ bị trục trặc. Tuy với mọi cố gắng của phi công, máy bay vẫn từ từ lao xuống đất. Cuối cùng, viên phi công chộp lấy một chiếc dù và nói lớn với các hành khách rằng mọi người nên nhảy dù ra, và sau đó ông ta nhảy ra khỏi phi cơ.
Rủi thay, trên máy bay chỉ còn lại ba chiếc dù.
Ông bác sĩ nhanh tay chộp lấy một cái dù và nói: “Tôi là bác sĩ, tôi cứu người, vì vậy tôi cần phải sống,” rồi nhảy ra ngoài.
Ông luật sư sau đó nói, “Tôi là luật sư và luật sư là những người thông minh nhất thế giới. Tôi xứng đáng để được sống.” Ông cũng nắm lấy một chiếc dù và nhảy ra ngoài.
Vị linh mục nhìn cậu bé và nói: “Này con, ta đã sống đủ lâu và đã mãn nguyện. Con còn trẻ và có cả một cuộc đời tươi sáng trước mặt. Con hãy lấy chiếc dù cuối cùng này và sống vui vẻ.”
Cậu bé đưa trở lại chiếc dù cho vị linh mục và nói: “Cha đừng lo. Người thông minh nhất thế giới đã ra đi với cái ba lô của con.”
Giàu Có Thực Sự
Ngày xưa, có một người đàn ông giàu có ở một thị trấn nọ. Ông ta luôn khoe khoang với bạn bè và họ hàng về sự giàu có của mình.
Vào mùa hè, người con trai của ông đang học trên thành phố xa xôi về quê thăm nhà. Ông muốn khoe với con trai mình về sự giàu có của ông. Nhưng con ông không thích cuộc sống xa hoa. Tuy vậy, ông muốn cho con trai nhận ra cuộc sống của họ sung sướng thế nào khi so sánh với cuộc sống của người nghèo. Ông nghĩ ra ý tưởng đưa con trai đi vòng quanh thị trấn để người con thấy những người nghèo sống khổ sở như thế nào.
Sau đó ông lấy một chiếc xe ngựa chở người con đi vòng quanh thị trấn. Hai ngày sau họ trở về. Người cha vui mừng với thái độ im lặng của con trai khi thấy những người nghèo tỏ ra tôn trọng đối với người giàu có và sau khi chứng kiến sự khốn khổ của người nghèo thiếu nơi ăn chốn ở.
Người giàu có hỏi con trai, “Con thấy chuyến đi thế nào? Con có thích không?”
Người con trả lời, “Dạ, thưa cha, con rất thích chuyến đi.”
Người cha hỏi, “Vậy con học được gì từ chuyến đi này?”
Người con giữ im lặng.
Người cha nói, “Cuối cùng con đã nhận ra sự khốn khó của người nghèo và cuộc sống thực sự của họ như thế nào.”
Người con trả lời, “Không có cha.” Người con nói thêm, “Chúng ta chỉ có hai con chó, họ có tới 10 con chó. Chúng ta có một cái ao lớn trong vườn, nhưng họ có cả một cái vịnh lớn đến nỗi không thấy bờ bên kia! Chúng ta có nhiều loại đèn đắt tiền nhập cảng từ ngoại quốc chiếu sáng ngôi nhà của chúng ta, nhưng họ có vô số ngôi sao trên trời chiếu sáng đêm tối cho họ. Chúng ta có một ngôi nhà trên một mảnh đất nhỏ, nhưng họ có những cánh đồng lớn chạy xa mãi chân trời. Chúng ta được bảo bọc bởi những bức tường cao và kiên cố, nhưng họ có bạn bè vây quanh đùm bọc lẫn nhau. Chúng ta phải mua thực phẩm của họ, nhưng họ đầy đủ đến nỗi có thể tự làm ra thực phẩm cho riêng họ.”
Người đàn ông giàu có chưng hửng không nói nên lời khi nghe người con nói vậy.
Người con nói thêm, “Thưa cha, con cám ơn cha rất nhiều đã cho con thấy ai giàu ai nghèo. Cám ơn cha đã cho con hiểu mình thực sự nghèo như thế nào!”
Bài học luân lý: Sự giàu có thật sự không đo bằng tiền bạc hay tài sản mà bằng tình bạn thân thiết và sự đùm bọc lẫn nhau của những người thân.
Lời Cầu Nguyện Mãnh Liệt
Kim và Ray là bạn thân từ thuở nhỏ. Hai người là hàng xóm với nhau, bạn học cùng trường, và bạn đồng nghiệp tại nơi làm việc.
Một ngày nọ, họ quyết định thực hiện một chuyến du hành trên biển để khám phá những vùng đất lạ. Họ bắt đầu cuộc hành trình trên một tàu du lịch và đi thật xa. Bỗng một ngày, chiếc tàu gặp phải một cơn bão lớn và bị đắm ở giữa đại dương. Hầu hết hành khách bị chết đuối, chỉ riêng Kim và Ray còn sống sót và trôi dạt tới một hòn đảo gần đó.
Đây là một đảo hoang; không có thú vật và chỉ có ít cây cối. Kim và Ray nhận ra rằng họ không thể sống sót trên đảo nếu không có sự phù trợ của Thiên Chúa. Họ quyết định cầu nguyện với Chúa. Họ bàn với nhau để xem lời cầu nguyện của ai sẽ được lắng nghe. Sau đó, Kim đi đến bờ phía đông của hòn đảo, quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện, còn Ray đi đến bờ phía tây của hòn đảo để cầu nguyện.
Kim cầu xin Chúa cho anh thức ăn để sống. Thật bất ngờ, thật nhiều thực phẩm, trái cây và rau quả bỗng chốc bày ra trên bãi biển.
Hai ngày sau, Kim lại xin Chúa ban cho một cô gái xinh đẹp để lấy làm vợ, vì anh cảm thấy rất cô đơn trên đảo. Vài tiếng đồng hồ sau, một chiếc thuyền trôi dạt vào bãi biển với duy nhất một người sống sót; một cô gái xinh đẹp. Kim liền kết hôn với các cô gái ấy.
Bất cứ gì Kim cầu xin cũng đều được ban cho.
Gần một tháng trôi qua kể từ ngày đặt chân lên đảo, Kim cảm thấy nhớ nhà và muốn trở về đất liền. Anh cầu nguyện xin Chúa gửi đến cho anh một chiếc thuyền để đưa anh trở về đất liền. Như ý nghuyện, một chiếc tthuyền hiện ra để đưa Kim và vợ anh trở về.
Khi hai vợ chồng sắp sửa bước lên thuyền, Kim nghe như có ai đó nói với anh, “Ngươi đành đi một mình và để lại bạn đồng hành của ngươi sống ở đây sao?”
Kim ngạc nhiên hỏi, “Đây là ai xin cho tôi biết? Tôi hiện chỉ biết có vợ của tôi thôi!”
Tiếng nói đó đáp lại, “Ta là người mà ngươi cầu xin tới, người mà ngươi xin cứu mạng sống, và người mà ngươi xin thức ăn và nơi trú ẩn và … một người vợ!”
Kim sợ hãi quỳ xuống và nói: “Cảm ơn Chúa!”
Liền sau đó, Kim chợt nhớ tới Ray, người mà anh đã quên lãng thời gian qua. Anh cảm thấy có lỗi.
Chúa phán với anh: “Ta không phải đáp lời cầu nguyện của ngươi. Ta chỉ thực hiện lời cầu nguyện của Ray, bạn ngươi. Anh ta đã cầu xin một điều duy nhất! Anh nói ‘Xin Chúa hãy chấp nhận những lời cầu nguyện của Kim‘. Đó là lời cầu nguyện duy nhất của anh ta”.
Kim bật khóc và chạy qua phía bên kia của hòn đảo để tìm Ray. Anh cảm thấy tội lỗi vì hầu như đã quên mất người bạn thân thiết mà chỉ vui sướng tận hưởng cuộc sống của riêng mình.
Anh chạy khắp nơi tìm Ray nhưng không thấy. Anh hỏi Chúa, “Lạy Chúa, Ray bây giờ đang ở đâu?”
Chúa trả lời: “Ta đã đưa anh ta về với ta. Người có trái tim vàng nên ở bên cạnh ta! Nhưng ta sẽ đáp ứng tất cả những lời cầu nguyện của ngươi như ta đã hứa với Ray!”
Kim thật hối hận. Anh liền nhận ra lý do tại sao lời cầu nguyện của bạn anh mãnh liệt hơn. Đó là bởi vì lời cầu nguyện của Ray hoàn toàn từ tấm lòng vị tha.
Bài học luân lý: Tấm lòng vị tha là hình thức cao nhất của cầu nguyện.
Xem thêm: Những câu chuyện hay – Phần 5
Abraham Lincoln
Abraham Lincoln là vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Ông là con của một nông dân nghèo. Nhưng với tính trung thực và chăm chỉ làm việc, ông đã trở nên một vĩ nhân ngay ở thời đại của mình. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 tại Hạt Hardin, Kentucky. Cha mẹ của ông là Thomas Lincoln và Nancy Hanks Lincoln.
Từ thủa bé, Abraham Lincoln đã phải giúp cha mình trong công việc đồng áng. Nhiều lúc ông không thể đi học vì quá bận với công việc ở nhà và ngoài đồng; nhưng ông rất thích đọc sách. Ông thường thức khuya để đọc sách và giải các bài toán. Việc học của ông đa phần là do tự học vì tổng số thời gian tới trường của ông chưa đầy một năm.
Có lần Lincoln muốn đọc một quyển sách mà ông không có tiền để mua. Ông đã đi bộ hai mươi dặm chỉ để mượn hàng xóm quyển sách đó; đó là cuốn tiểu sử của George Washington, vị Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Ông thích cuốn sách đến nỗi không thể bỏ sang một bên cho đến khi đọc hết.
Khi lên 22 tuổi, năm 1831, ông dọn đến thị trấn New Salem ở tiểu bang Illinois, và tiếp tục tự học bằng cách mượn sách về các môn học như văn phạm, lịch sử, toán học và luật pháp. Ông đã làm nhiều loại công việc khác nhau trước khi trở thành một luật sư nổi tiếng. Ông dần dần bị cuốn hút vào chính trị. Từ năm 1847 đến năm 1849, Lincoln phục vụ một nhiệm kỳ duy nhất trong Quốc hội liên bang. Ông đã phục vụ trong Quốc hội tiểu bang Illinois qua nhiều nhiệm kỳ. Trong thời gian đó, ông theo học luật và bắt đầu làm luật sư. Mặc dù Lincoln thua Douglas trong cuộc chạy đua vào Thượng viện, ông đã được bầu trở thành Tổng thống vào năm 1860. Lincoln tái đắc cử vào tháng 11 năm 1864. Ông muốn giữ cho đất nước được thống nhất với bất cứ giá nào. Một cuộc nội chiến đã nổ ra giữa các tiểu bang miền Bắc và miền Nam. Ông đã dũng cảm chiến đấu và tuyên bố: “Một quốc gia không thể tồn tại với một nửa không và một nửa có nô lệ.” Ông đã chiến thắng và giữ cho đất nước được thống nhất.
Năm 1862, Lincoln tuyên bố rằng từ nay trở đi tất cả nô lệ sẽ được tự do. Điều này đã làm ông trở nên nổi tiếng. Lincoln đã bị John Wilkes Booth ám sát vào ngày 14 tháng 4 năm 1865 và qua đời ngày hôm sau.
Tình Yêu Dâng Hiến
Có một cô gái mù. Cô ghét bản thân bị mù của mình. Cô ghét tất cả mọi người, ngoại trừ người bạn trai yêu quý của cô. Bởi vì anh ta luôn ở bên cô.
Cô ước nguyện nếu có thể được nhìn thấy thế giới, cô sẽ lấy người bạn trai làm chồng. Một ngày kia, có một người tặng cho cô một đôi mắt. Sau cuộc giải phẫu ghép mắt, cô có thể nhìn thấy mọi thứ, kể cả bạn trai yêu quý của cô.
Người bạn trai hỏi cô, “Bây giờ em đã có thể nhìn thấy thế giới, vậy em có bằng lòng lấy anh không?” Cô gái sững sờ khi thấy rằng người bạn trai cô cũng bị mù, và từ chối kết hôn với anh ta.
Người bạn trai của cô bỏ đi với hai dòng nước mắt. Sau đó anh ta viết một lá thư gửi cho cô gái với dòng chữ:
Em yêu quý, hãy giữ gìn cặp mắt của anh.
Sự Tranh Cãi giữa Gió và Mặt Trời
Gió và Mặt Trời tranh cãi với nhau để xem ai mạnh hơn. Trong khi họ tranh cãi kịch liệt thì có một khách bộ hành khoác áo choàng đang đi trên đường.
Mặt trời nói, “Bây giờ để xem ai hơn ai, tôi đề nghị ai làm cho người khách bộ hành kia cởi áo choàng ra thì là kẻ thắng”.
Gió trả lời, “Đồng ý!”. Và ngay lập tức Gió thổi ra một cơn gió lạnh buốt nhắm người khách bộ hành.
Cơn gió mạnh thổi đến muốn kéo bay chiếc áo choàng của người bộ hành, nhưng ông ta nhanh tay giữ lại và quấn chặt áo quanh mình; gió càng thổi, ông ta càng giữ chặt. Gió giận giữ gia tăng cường độ nhưng bao cố gắng cũng đều vô ích.
Tới phiên Mặt Trời. Khởi đầu, Mặt Trời tỏa ra các tia sáng ấm áp. Khi thấy không khí ấm lên sau những cơn gió lạnh trước đây, người bộ hành bắt đầu cởi hết nút áo choàng ra. Tia nắng trở nên mỗi lúc một nóng hơn, ông ta gỡ nón ra và lấy tay lau mồ hôi trên trán. Cuối cùng sức nóng tăng tới mức ông phải cởi chiếc áo choàng ra, và tìm kiếm một bóng cây bên đường để tránh cơn nóng.
Sự khuyên nhủ tận tình và dịu dàng sẽ chiến thắng ở những nơi mà sức mạnh không thành công.
Xem thêm: Những câu chuyện hay – Phần 4
Chuyện Một Người Lính Trở Về Từ Chiến Trường
Câu chuyện về một người lính trở về nhà sau khi hoàn tất thời gian nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam. Anh lính gọi điện thoại cho bố mẹ ở San Francisco. “Thưa bố mẹ, con sắp về nhà, nhưng con có một điều muốn hỏi bố mẹ. Con có mang theo một người bạn”. Bố mẹ anh trả lời, “Được. Con mang bạn về đây. Bố mẹ cũng muốn gặp bạn con”.
Người con nói tiếp, “Con muốn bố mẹ biết một điều, bạn con bị thương khá nặng trên chiến trường. Anh ấy đạp phải mìn và bị mất một chân và một tay. Bạn con không có nơi nào khác để về, và con muốn anh ta về ở chung với chúng ta”.
“Thật tội nghiệp cho bạn con. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ tìm cách giúp anh ta có một nơi nào khác để sống”.
“Không, thưa bố mẹ, con muốn anh ta ở với chúng ta”.
Người cha nói, “Con à! Con không biết con đang đòi hỏi điều gì. Một người khuyết tật như vậy sẽ là một gánh nặng khủng khiếp đối với chúng ta. Chúng ta có cuộc sống riêng của mình và không thể để cho một chuyện như thế này khuấy động cuộc sống của chúng ta. Bố nghĩ con nên về nhà và quên anh bạn này đi. Anh ta sẽ tự tìm cách mưu sinh cho mình”.
Ngay sau đó, người con cúp điện thoại và cha mẹ anh không còn nghe anh ta gọi lại. Một thời gian sau, cha mẹ anh lính nhận được điện thoại của cảnh sát San Francisco. Con trai họ đã rơi từ một tòa nhà cao xuống chết. Cảnh sát cho biết có thể đây là cuộc tự tử.
Cha mẹ anh lính đau buồn chạy đến nhà xác để nhìn mặt con. Họ bỗng nhận ra, thật kinh ngạc, con trai của họ chỉ có một tay và một chân.
Bài học: cha mẹ người lính trong câu chuyện này giống như nhiều người trong chúng ta; rất dễ để yêu mến những người trông sáng sủa, khỏe mạnh hay vui vẻ, nhưng không thích những người có thể gây phiền toái cho mình. Nếu chúng ta là một trong những người xấu số thì có ai để chúng ta có thể cậy nhờ. Thật may mắn, vẫn còn một số ít có lòng. Hãy cố gắng để làm một người có lòng quảng đại, như chúng ta vẫn cầu xin Thượng Đế quảng đại với chúng ta.
Đi Tìm Giải Pháp Thực Sự Cho Vấn Đề
Một nhóm nhân viên làm việc trong một công ty nhu liệu. Đây là một nhóm gồm 30 nhân viên trẻ, năng động và nhiệt tình với mong muốn học hỏi để tiến bộ. Ban quản lý muốn chỉ dạy cho những nhân viên này về việc tìm ra giải pháp thực sự cho các vấn đề.
Nhóm được mời tham gia một cuộc chơi trong hội trường của công ty. Ai cũng ngạc nhiên khi được mời tham gia trò chơi. Mọi người đến hội trường với nhiều ý nghĩ khác nhau. Khi tới nơi, họ thấy hội trường trang trí rất đẹp với giấy đủ màu dán trên tường và bong bóng khắp sàn nhà, giống như một vườn trẻ hơn là một phòng họp của công ty.
Trưởng nhóm yêu cầu tất cả mọi người chọn một trái bong bóng và ghi tên mình lên. Sau đó các bong bóng có tên được thu lại và bỏ vào một căn phòng khác.
Người trưởng nhóm yêu cầu các nhân viên đi vào phòng này và mỗi người tự tìm trái bong bóng của mình. Ông còn dặn dò phải cẩn thận không được làm bể bất kỳ trái bong bóng nào.
Tất cả 30 nhân viên bắt đầu đi tìm trái bong bóng mang tên mình. Sau 15 phút vẫn chưa có ai tìm ra được bong bóng của mình.
Cả nhóm được loan báo thời hạn tìm bong bóng đã hết.
Bây giờ tới vòng kế tiếp của cuộc chơi và cũng là cuối cùng. Các nhân viên được yêu cầu nhặt bất kỳ trái bong bóng nào lên và đưa nó cho người có tên trên bong bóng. Trong vòng hai phút, tất cả các bong bóng đều tới tay chủ nhân của nó.
Người đội trưởng giải thích, việc này gọi là giải pháp thực sự cho vấn đề. Mọi người đều quay cuồng săn tìm giải pháp cho vấn đề mà không để ý đến chuyện tìm kiếm phương pháp giải quyết vấn đề. Nhiều khi chia sẻ và giúp đỡ người khác mang lại cho chúng ta giải pháp thực sự cho mọi vấn đề.
Bài học: Biết chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau sẽ làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn.
Chuyến Giao Hàng Cuối Cùng
Một cặp vợ chồng giàu có sửa soạn tổ chức bữa tiệc tân niên lớn tại nhà. Họ ra chợ để mua sắm mọi thứ cần thiết. Họ muốn buổi tiệc phải sang trọng nên không ngại mua những đồ vật và thức ăn mắc tiền. Sau khi mua tất cả những thứ cần thiết, họ gọi một người phu chở hàng để mang mọi thứ về nhà họ. Người phu chở hàng là một già trông ốm yếu với bộ quần áo rách rưới, có vẻ như rất nghèo và không kiếm đủ tiền để sống.
Cặp vợ chồng hỏi giá cả. Ông lão giao hàng cho biết giá chỉ có 20 đồng thôi, thấp hơn nhiều so với giá bình thường để giao một lượng hàng nhiều cỡ này. Tuy nhiên, cặp vợ chồng vẫn tiếp tục trả giá và cuối cùng thỏa thuận với ông lão với giá 15 đồng. Ông lão chở hàng đang cần có tiền nên đành phải chấp nhận số tiền nhỏ nhoi này.
Cặp vợ chồng rất vui vì đã mặc cả được giá rẻ. Họ trả tiền cho ông lão, rồi đưa địa chỉ để ông giao hàng tới nhà. Một lúc sau cặp vợ chồng về tới nhà nhưng chưa thấy đồ đạc của mình tới. Họ chờ một tiếng đồng hồ, rồi hai tiếng mà vẫn chưa thấy ông lão tới giao hàng.
Người vợ bắt đầu nổi giận với chồng, “Tôi đã nói với ông rồi, không nên tin ông già đó, nhưng ông không bao giờ nghe tôi. Một người thậm chí không thể kiếm được đủ tiền cho một bữa ăn mà ông giao cho hắn tất cả những thứ cần thiết để làm một bữa tiệc lớn. Tôi chắc chắn thay vì giao hàng tới đây, ông ta đã cao chạy xa bay rồi. Chúng ta phải ngay lập tức trở lại chợ hỏi thăm về ông già đó rồi đi báo cảnh sát”.
Hai vợ chồng lên đường đi tới chợ. Khi gần tới chợ, họ thấy một người chở hàng khác. Họ chặn người này lại để hỏi thăm về ông lão chở hàng và chợt thấy ông ta đang mang đồ đạc của họ trong xe! Người vợ giận dữ hỏi ông ta, “Tên trộm già kia đâu rồi? Đây là đồ đạc của chúng tôi và ông ta đáng lẽ phải mang tới cho chúng tôi. Phải chăng những tên trộm các ngươi đang mang đồ của chúng tôi đi bán?”
Người chở hàng trả lời, “Thưa bà, xin bà hãy bình tĩnh. Ông lão nghèo khổ kia đã bị bệnh từ tháng trước. Ông ấy thậm chí không kiếm đủ một bữa ăn trong ngày. Khi ông đang trên đường đưa những đồ đạc này tới cho ông bà, ông ta đã ngã quỵ dưới trời nắng gắt của buổi trưa. Ông đã đưa cho tôi 15 đồng để tôi chuyển lố hàng này. Những lời cuối cùng của ông ta là: “Tôi đã lấy tiền trước để giao hàng, xin bạn lấy số tiền này và giúp tôi đưa món hàng tới địa chỉ này”.
“Thưa bà, ông ta đói, ông ta nghèo, nhưng ông là một người thành thật. Tôi đang trên đường để hoàn thành chuyến giao hàng cuối cùng của ông lão tới nhà ông bà”. Sau khi nghe những lời này, người chồng ứa nước mắt và người vợ cảm thấy xấu hổ.
Bài học: Sự trung thực không có giai cấp. Hãy tôn trọng mọi người bất kể hoàn cảnh giàu nghèo hay xã hội của họ.
Xem thêm: Những câu chuyện hay – Phần 3
Lựa Lời Mà Nói
Một ngày kia, một ông lão loan truyền tin đồn rằng người hàng xóm của ông là một tên trộm. Kết quả là chàng trai trẻ hàng xóm bị cảnh sát bắt. Vài hôm sau, chàng trai trẻ được thả ra vì cảnh sát không kiếm được bằng chứng. Khi được thả về nhà, anh rất tức giận vì bị ông lão hàng xóm vu oan. Anh ta liền nộp đơn kiện ông lão.
Trong phiên tòa, ông già nói với quan tòa, “Tất cả chỉ là những lời bình luận, không làm hại ai”. Quan tòa nói với ông già trước khi đưa ra phán quyết, “Hãy viết ra tất cả những điều ông đã nói về bạn trẻ kia trên trên một mẩu giấy. Cắt mẩu giấy vụn ra và trên đường đi về nhà, hãy quăng những mảnh giấy vụn ra ngoài đường. Ngày mai, trở lại đây để nghe phán quyết”.
Ngày hôm sau, vị quan tòa nói với ông lão, “Trước khi nhận bản án, ông hãy đi ra ngoài và thu lượm lại tất cả các mảnh giấy vụn mà ông đã ném đi hôm qua”. Ông lão nói, “Tôi không thể làm được! Gió đã thổi những mảnh giấy đó đi khắp nơi. Biết ở đâu mà tìm?”
Quan tòa trả lời: “Cũng giống như vậy, những lời bình phẩm đơn giản có thể đánh mất danh dự của một người đến mức khó có thể lấy lại”. Ông lão liền nhận ra lỗi lầm của mình và cầu xin tòa tha thứ”.
Bài học: Không nên vu oan hay giá họa bất cứ ai mà không biết sự thật. Lời nói của bạn có thể làm tổn thương người khác.
Tình Yêu của Một Người Mù
Một người đàn ông cưới được một cô gái xinh đẹp. Anh ta rất yêu vợ và họ sống với nhau thật hạnh phúc. Tới một ngày kia, cô vợ bỗng bị một thứ bệnh về da. Từ đó, nước da của cô bắt đầu xạm lại và cô dần mất đi vẻ đẹp ngày xưa. Cũng thời gian đó, người chồng có một chuyến đi làm ăn xa. Trên đường trở về, anh gặp phải tai nạn và bị mù đôi mắt. Rồi nhiều ngày trôi qua, sắc đẹp của cô vợ bị phai nhạt dần nhưng người chồng mù không biết điều gì xảy ra. Vì vậy mà cuộc sống của cặp vợ chồng vẫn không khác biệt gì với trước đây. Anh chồng vẫn thương yêu vợ và ngược lại, cô vợ cũng rất yêu chồng. Tuy nhiên, cô vợ bỗng mất sớm. Người chồng rất buồn với một mất mát lớn. Anh ta cố gắng thu xếp đám tang cho vợ thật đầy đủ và quyết định lên đường đi nơi khác.
Một người hàng xóm thấy tội nghiệp cho anh nên hỏi thăm. Ông hàng xóm nói, “Này anh bạn, làm sao anh có thể ra đi một mình mà không có người dẫn dắt? Từ hồi nào đến giờ vợ anh đã giúp anh trong mọi chuyện đi đứng kia mà. Anh ta đáp lại, “Tôi không bị mù. Tôi chỉ giả vờ bị mù. Nếu vợ tôi biết tôi có thể nhìn thấy nước da xấu xí, bệnh tật của cô, cô ta sẽ còn đau đớn hơn. Tôi không yêu vợ tôi chỉ vì vẻ đẹp bề ngoài mà vì bản tính tốt lành, thương người của cô ấy. Vì vậy, tôi giả vờ mù là để cho cô được vui vẻ”.
Bài học luân lý: Khi ta thực sự yêu một người, ta sẽ tìm mọi cách để giữ cho người mình yêu được vui vẻ. Nhiều khi, chúng ta tốt hơn nên giả vờ mù trước những khuyết điểm của người mình yêu. Vẻ đẹp sẽ mờ dần theo thời gian, nhưng bản chất sẽ mãi mãi như cũ. Yêu một người là yêu những gì từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài người đó.
Xem thêm:Những câu chuyện hay – Phần 2
Gieo Nhân Nào, Gặt Quả Nấy
Có một doanh nhân thành đạt làm chủ một công ty bảo hiểm y tế. Vào một buổi sáng ra khỏi nhà đi làm, khi ông mở cửa xe thì bất thình lình có một con chó đi lạc đang ngủ dưới gầm xe chồm lên cắn vào chân ông. Ông doanh nhân tức giận nhặt vài hòn đá nhỏ bên đường để ném con chó, nhưng con chó đã nhanh chân chạy xa.
Khi đến văn phòng làm việc, ông doanh nhân gọi một cuộc họp gồm các quản đốc của ông. Trong cuộc họp, chuyện bực mình với con chó đã làm ông đổ cơn giận lên các quản đốc. Các quản đốc cảm thấy bất mãn vì bị ông chủ quở trách một cách vô cớ. Sau đó họ đổ cơn giận lên những nhân viên làm việc dưới quyền. Chuỗi phản ứng này tiếp tục truyền xuống đến mức nhân viên thấp hơn và cuối cùng, cơn giận xuống đến bậc cuối cùng là người quét dọn văn phòng.
Tới đây thì không còn ai làm việc bên dưới người lao công nữa. Vì vậy, sau giờ làm, ông ta về nhà và vợ ông ra mở cửa. Bà hỏi ông ta, “Tại sao hôm nay anh về trễ thế?” Người lao công đang trong cơn bực tức liền tát cho vợ một cái. Ông nói, “Tôi không đến sở làm để chơi thể thao, tôi mệt quá rồi, đừng hỏi tôi với những câu hỏi ngớ ngẩn!”
Bà vợ bỗng dưng bị trách mắng một cách vơ cớ cũng nổi giận, nhưng không biết trút cơn giận vào đâu. Trong lúc đó bà quay vào trong nhà thì thấy con trai đang xem ti vi. Bà liền nói với người con trai: “Đây là tất cả những gì con làm hả! Không thấy bao giờ con quan tâm đến việc học! Hãy lập tức tắt ti vi và lấy bài vở ra học ngay!”
Người con trai bực bội khi bị la bất ngờ, liền bước ra khỏi nhà cho đỡ tức. Anh bỗng thấy một con chó đi ngang qua trước cửa nhà và nó quay lại nhìn anh. Anh bèn nhặt một viên đá lớn, đoạn lấy hết sức liệng con chó. Rủi thay, viên đá ném trúng con chó. Nó kêu ăng ẳng và cụp đuôi bỏ chạy trong đau đớn.
Đây cũng chính là con chó đã cắn người doanh nhân vào sáng sớm.
Bài học luân lý:
Giao nhân nào gặt quả nấy. Đây là quy luật của cuộc sống. Chúng ta thường lo lắng về địa ngục và thiên đường dựa trên các việc làm của mình. Một cách thực tế hơn, chúng ta nên chú tâm vào cách chúng ta sống và hành xử. Làm tốt thì điều tốt sẽ đến; làm xấu thì chuyện xấu sẽ xảy ra.
Muỗi và Sư Tử
Vào một buổi chiều nóng nực cuối hè ở Phi Châu, các giống vật trong rừng sửa soạn đi ngủ.
Trên một ngọn cỏ cao, một con muỗi đang làm võng để ngủ.
Đêm nay là một đêm khá nóng, ngay cả đối với Muỗi, nhưng Muỗi cũng cố gắng đi ngủ. Muỗi nhắm mắt lại và chẳng bao lâu đã rơi vào giấc ngủ say. Màn đêm trở nên mỗi lúc một tối nhưng mát hơn một chút. Bỗng nhiên có một tiếng gầm lớn ở sâu trong rừng vọng ra.
Tất cả các loài vật bị tiếng gầm đánh thức, ngay cả Muỗi. Muỗi dụi mắt nhìn chung quanh để xem tiếng gầm ở đâu ra.
Đó tiếng gầm của Sư Tử, chúa sơn lâm, trong lúc đi săn. Một lần nữa, Sư Tử há mồm ra gầm lên.
Sư Tử đi tới chỗ Muỗi ngủ. Muỗi đang rất khó chịu với tiếng gầm của Sư Tử. Muỗi quát Sư tử, “Tại sao ông la hét om sòm vào ban đêm thế này? Ông không thấy tất cả chúng tôi đang ngủ sao?”
Sư Tử ra vẻ khinh khi Muỗi quát lại, “Mày là thứ côn trùng nhỏ bé, vô dụng chẳng nghĩa lý gì. Sao mày cả gan nói với tao như thế?
Muỗi bỉu môi nói, “Ông có tướng to lớn và khỏe mạnh nhưng điều đó không có nghĩa là ông có quyền đánh thức mọi người vào ban đêm. Tại sao ông không gầm trong góc rừng của mình? Tại sao ông không gầm với những con vật to lớn như ông? Hãy để cho chúng tôi, những loài vật nhỏ bé, có giấc ngủ yên bình.”
Sư Tử cố gắng kiềm chế cơn giận của mình. Anh ta biết rằng nếu muốn chinh phục người khác thì phải biết kiểm soát chính mình trước.
Sư Tử nói với giọng nghiêm trang, “Với quyền gì hả? Mày không biết tao là chúa tể sơn lâm sao? Tao có thể làm hay ăn những gì tao muốn, và đi đến bất cứ nơi nào. Tao nói những gì tao thích mà không ai có quyền chất vấn. Đơn giản chỉ vì tao là Chúa tể sơn lâm.” Và Sư Tử gầm lên một lần nữa.
Muỗi bỗng cắt ngang, “Ồ, ông làm ơn ngừng một chút. Ít nhất trong khi chúng ta đang trò chuyện với nhau. Thật khó để nói chuyện với một kẻ ngu ngốc chỉ biết gào thét.”
Muỗi nói thêm, “Điều gì làm cho ông nghĩ rằng ông là Chúa tể sơn lâm? Có ai bầu cho ông không?”
Tới lúc này, Sư tử bắt đầu muốn nổi nóng vì một con côn trùng nhỏ bé dám tra hỏi mình.
Sư tử nói với Muỗi, “Tao không cần phải chứng minh cho bất cứ ai. Tất cả mọi người đều xem ta là Chúa tể sơn lâm và sợ hãi ta.”
Muỗi cười và nói, “Tôi không sợ ông và vì vậy tôi không cần phải coi ông là Chúa tể sơn lâm? Vì vậy, ông không có quyền làm Chúa tể sơn lâm.”
Sư tử tức giận và hét lên, “Ngươi dám không xem ta là Chúa tể sơn lâm? Con côn trùng nhỏ bé! ”
Muỗi nói, “Đúng vậy, và ông không thể là chúa tể trừ phi ông đánh bại tôi.”
Sư tử cười lớn vì không thể tin được nó phải đánh nhau với một con vật nhỏ bé, mà đàng này lại là một con muỗi không đáng gì.
Sư tử nghi ngờ không hiểu có phải thực sự Muỗi muốn thách đấu.
Sư tử gặn hỏi, “Có phải mày nói là ĐÁNH NHAU không? Chưa bao giờ có chuyện sư tử đấu với muỗi. Hãy dẹp đi, con vật nhỏ bé không đáng nói! Mày hãy câm miệng, nếu không, tao sẽ thổi mày thành tro bụi.
Tuy nhiên cho dù Sư tử thổi mạnh cỡ nào thì cũng chỉ làm cho ngọn cỏ cong xuống chứ không bứng muỗi đi dược.
Muỗi cười và nói, “Nếu ông bỏ đi mà không đấu với tôi, tôi sẽ nói cho tất cả loài vật biết chuyện này và họ sẽ bầu tôi làm vua.”
Sư tử cười khi dễ, “Được, nếu mày muốn đánh nhau thì đánh nhưng đừng nói là ta không cảnh báo trước.”
Muỗi ngừng một chút rồi nói, “Nhưng ông phải đồng ý một chuyện.”
Sư tử hỏi, “Điều kiện gì?”
Muỗi trả lời, “Người nào thắng sẽ là vua.”
“Chắc chắn rồi!” Sư tử nói như vẻ chắc thắng.
Muỗi nói, “Khi nào ông chuẩn bị xong thì cho tôi biết.”
Sư tử đáp, “Ta lúc nào cũng sẵn sàng.”
Muỗi nói, “Vậy hãy bắt đầu.”
Nghe thấy thế, Sư tử liền phóng tới ngọn cỏ và há mồm thật lớn, với ý định nuốt cả bầy muỗi. Muỗi đã đoán trước điều này nên xoải cánh bay lên cao rồi bổ xuống đậu trên mũi Sư tử. Muỗi bắt đầu chích liên tục lên mũi Sư tử. Sư tử bất ngờ vì bị muỗi đốt nhiều lần đến chịu không nổi đàng phải xin muỗi tha cho. Sư tử rên lên trong cơn đau đớn nhưng muỗi vẫn không tha. Sư tử chà mũi lên cỏ, hắt hơi, lấy chân trước quẹt lên mũi nhưng muỗi vẫn bám chặt.
Sư tử rên xiết và năn nỉ, “Chết mũi tôi rồi! Làm ơn bỏ mũi tôi ra! Tôi đồng ý để bạn làm Vua.”
Cuối cùng Muỗi bay khỏi mũi của Chúa tể sơn lâm và trở về ngọn cỏ của mình với sự thỏa mãn và tự hào. Trong khi Sư tử lặng lẽ bỏ đi vào rừng sâu trong sự nhục nhã vì bị thua một con muỗi nhỏ bé!
Muỗi tự hào la lên, “Đáng lẽ ta phải là Vua từ lâu rồi. Ta vừa thông minh, dũng cảm và vừa đẹp trai nữa.”
Trong lúc say sưa với chiến thắng, một cơn gió mạnh thổi đến uốn cong ngọn cỏ xuống gần mặt đất. Chẳng may ngọn cỏ và cả con muỗi bị vướng vào lưới nhện. Muỗi càng vùng vẫy thì càng bị lưới nhện cột chặt hơn. Ngay lập tức, một con nhện thấy được sự việc và từ từ bò đến ăn thịt muỗi. Thế là kết cục của một con muỗi tự hào!
Bài học luân lý:
Tự hào là điềm báo của thất bại.
Xem thêm: Những câu chuyện hay – Phần 1